Đề 2: Nhà thơ Xuân Diệu
viết: "Nguyễn Khuyến là nhà thơ của
làng cảnh Việt Nam". Hãy làm
sáng tỏ nhận định trên bằng việc phân tích chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến.
II. Dàn ý.
1. Mở bài. Dẫn: nhà thơ Đỗ
Trung Quân đã từng viết: “Quê hương là chùm khế ngọt/ Cho
con trèo hái mỗi ngày..”.hai tiếng quê hương gắn bó bao đời nay với mỗi con
người Việt Nam. Có nhiều tác phẩm văn học ngợi ca quê hương...NK là nhà thơ gắn
bó nhiều với làng quê...Xuân Diệu đánh giá " Nguyễn Khuyến là nhà thơ của làng cảnh VN". Một trong số những
tác phẩm viết về quê hương của ông đó là chùm thơ thu.
2. Thân bài.
*Luận điểm 1: Giới thiệu
chung về thơ ca viết về mùa thu.
Mùa thu rất quen thuộc trong thơ ca từ cổ
chí kim, vốn là đề tài muôn thưở gần gũi và quen thuộc của các thi nhân. Mùa
thu là mùa đẹp gợi cảm hứng cho các nhà thơ thổ lộ tâm tình của mình. Trước
Nguyễn Khuyến, cảnh thôn quê đã từng xuất hiện ít nhiều trong thơ Nguyễn Trãi:“Ao cạn, vớt bèo cấy muống/Đìa thanh phát cỏ
ương sen”, và một số nhà thơ trung đại khác. Nhưng chỉ đến Nguyễn
Khuyến, văn học mới thực sự trở về làng quê, về với người dân nơi thôn dã. Nguyễn Khuyến “nổi tiếng nhất trong văn học Việt Nam là thơ Nôm” (Xuân Diệu) ông
có chùm thơ viết về mùa thu gồm 3 bài thu điếu thu vịnh, thu ẩm. Ba bài thơ mỗi
bài có những vẻ đẹp khác nhau song hội tụ lại đều nói về cảnh thu, hồn thu về làng
cảnh,cuộc sống ,phong tục,con người. Trong thơ Nguyễn Khuyến phảng phất một cái
buồn lặng lẽ như chính tâm hồn của nhà thơ. Mọi cảnh vật đều đẹp ,thanh sơ mang
màu sắc của vùng quê đồng bằng Bắc Bộ với một bầu trời thu xanh cao,một không
khí bảng lảng sương khói,một làn gió thu se lạnh, một ao bèo, một thuyền
câu,...những hình ảnh này không chỉ là các chi tiết về vùng quê mà nó còn chứa
đựng cả tâm hồn nhà thơ .
*LĐ 2 Hình ảnh thôn quê hiện lên trong
cả ba bài về mùa thu của Nguyễn Khuyến. Ba bài Thu Điếu,Thu Vịnh,Thu ẩm thể
hiện tập trung nhất sự đa dạng và tinh tế của tác giả. Ở “Thu Vịnh” là một bức tranh toàn cảnh về bầu trời mùa thu ở làng
quê: một bầu trời thu xanh cao, một vài cần trúc lơ thơ trước gió, một làn khói
thu,...một vài chùm hoa còn sót lại từ năm trước và cuối cùng là tiếng kêu của
những con ngỗng trời đi tránh rét thật gợi cảm. “Thu Vịnh Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,/Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu./Nước
biếc trông như tầng khói phủ,/ Song thưa để mặc bóng trăng vào/ Mấy chùm trước
giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không ngỗng nước nào? Bức tranh làng
cảnh của quê hương trở nên sinh động ,có hồn hơn chính là tiếng kêu này.Toàn
bài thơ gợi một cái gì tĩnh lặng.Tác giả tả cảnh làng quê gắn liền với hình ảnh
rất đặc trưng của nó, Từ cao xuống thấp,từ xa đến gần, bằng thị giác,thính giác
và bằng cả sự tâm tưởng,tâm hồn ưa quan sát,suy tư. Thấy được tình yêu quê
hương sâu sắc của nhà thơ. Trong “Thu
điếu” cũng là một bức tranh quê rất có hồn. Bao trùm lên bức tranh ấy là
một bầu không khí tĩnh lặng yên ắng, không gian làng quê nên thơ mà lặng lẽ,
đượm buồn. “Ao thu lạnh lẽo nước trong
veo/ Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo/Sóng biếc theo làn hơi gợi tí/ Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo/Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt/ Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”. Trong
thế giới ao thu ấy, cái gì cũng nhỏ bé nhẹ nhàng. không gian,thời gian,cảnh sắc
,con người dường như bị thu hẹp lại trong một con thuyền câu bé tẻo teo, ở
những chiếc lá vàng đang bị cuốn đi trước gió, ở cái quanh co,vắng lặng của một
ngõ trúc,...vv. Không gian và cõi lòng nhà thơ đều tĩnh lặng mà không hoang
vắng,có âm thanh cá đớp động dưới chân bèo. Đó chính là những hình ảnh quen
thuộc về làng quê Đồng bằng Bắc Bộ, quê hương của tác giả. Câu thơ ấy gợi ta
nhớ tới một vần thơ cổ “Ngô đồng nhất
diệp lạc/ Thiên hạ cộng tri thu” (Ngô đồng một lá rời cành/ Báo cho thiên hạ tin
lành thu sang). Nhìn chiếc lá vàng rụng ta biết mùa thu đã sang. Ở đây NK
không chỉ nhìn mà ông còn thấy tiếng lá rơi “sẽ đưa vèo”. Sau này Tản Đà cũng
có câu thơ tương tự “Vèo trông lá rụng
đầy sân”. Chữ vèo trong 2 câu thơ của 2 nhà thơ đều thể hiện được tâm trạng
bâng khuâng trước cảnh trời. Với bài Thu
ẩm. Nếu như hai bài thơ trên nói đến “trời thu”, “ao thu” thì ở bài này ông
không nói đến chữ thu ở các câu ông đều nói chuyện uống rượu. Ở hai bài thơ
trên tác giả tả cảnh thu nhiều hơn, hướng về thiên nhiên nhiều hơn ở bài
này.Tác giả ngồi trong cảnh ngôi nhà “cỏ
thấp le te” nhìn ra ngoài thấy “ngõ
tối” “đêm sâu và đom đóm lập lòe”,
“làn ao lóng lánh”, trời thì “xanh ngắt”...vv “Năm gian nhà nhỏ thấp le te/ Ngõ tối đêm khuya đóm lập lòe/ Lưng dậu
phất phơ màu thoáng nhạt/ Làn ao lóng lánh bóng trăng loe/ Da trời ai nhuộm mà
xanh ngắt”.Ở đây chúng ta thấy một nét độc đáo của cá tính,một thú vui,nét
đẹp của tâm hồn,chứ không phải là sự đam mê ẩm thực dung tục. Tóm lại với ba
bài thu, Nguyễn Khuyến đã tái hiện cảnh thôn quê của Đồng bằng Bắc bộ, một
khung cảnh bình dị dân dã quen thuộc gợi cho chúng ta thấy yêu làng cảnh quê
hương hơn.
LĐ 3: Hình ảnh con người - nhân vật trữ tình: Trong chùm thơ thu NK
ta không chỉ bắt gặp cảnh mà còn bắt gặp hình ảnh con người thi nhân. Nếu trong
thơ ca trước đó, tính ước lệ, quy phạm khiến cho hình ảnh của tác giả thường mờ
nhạt, khó có thể cụ thể giọng điệu cảm xúc thì ở chùm thơ thu này, hình ảnh
Nguyễn Khuyến hiện lên rất rõ. Đó là hình ảnh của một con người với tâm trạng
thế tình vời vợi, khôn khuây. Tập trung thể hiện rõ nét là ba cặp câu thơ kết
của ba bài. Trong “Thu điếu” ta thấy
dáng ngồi câu cá “tựa gối ôm cần” thú
vui câu cá tao nhã của thi nhân “Tựa gối
ôm cần lâu chẳng được/Cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Tiếng cá kia cũng chỉ
tồn tại trong sự liên tưởng mà thôi chứ thực chất bức tranh mùa thu tĩnh lặng
tuyệt đối, cái giật mình là giật mình của một tâm trạng chưa bao giờ yên cả.
Trong “Thu Vịnh” tác giả cảm thấy
“thẹn”, cái thẹn đó có thể là thẹn về nhân cách hay về tài thơ so với Đào Tiềm.
Phải chăng đó chỉ là cái cớ cho một nỗi thẹn thường trực của thi nhân với non
sông đất nước?.“Nhân hứng cũng vừa toan
cất bút,/ Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”.Và đến “Thu ẩm” thì nỗi đau, nỗi cô đơn đã hiện ra cả
hành động. “ Rîu tiÕng r»ng hay, hay
ch¶ mÊy,/ §é d¨m ba chÐn ®· say nhÌ”. Đó là
hành động mượn rượu giải sầu. Điều đó đã cho thấy cảm giác của nỗi khôn
nguôi, nỗi cô đơn, của một thân phận cô độc trong thời tao loạn, lủi thủi sống
nơi thôn quê.
Nguyễn Khuyến đÕn với chïm th¬ thu, lÈn trèn vµo kh«ng gian trêi
níc Êy ®Ó cè mµ quªn, ®Ó dÞu m¸t nh÷ng nçi niÒm d©n níc ®au ®¸u c¶ mét ®êi
con ngêi. BiÕt bao ng· rÏ cña cuéc ®êi, ông t×m vÒ víi Yên Đổ để tìm cuộc sống thôn quê bình dị để
sống cuộc sống an nhàn. S¸ng t¹o ë
®©y chÝnh lµ t©m tr¹ng thêi thÕ, t©m sù ®Êt níc rÊt riªng cña NguyÔn KhuyÕn.
§ã lµ t©m tr¹ng cña mét con ngêi trÜu nÆng suy t vÒ h¹nh phóc, vÒ ®éc lËp tù
do cña quª h¬ng mµ b¶n th©n «ng th× bÊt lùc. T©m sù Êy ®· trë ®i trë l¹i trong
nhiÒu bµi th¬ kh¸c cña «ng: “N¨m canh m¸u
ch¶y ®ªm hÌ v¾ng,/ S¸u kh¾c hån tan
bãng nguyÖt mê./ Cã ph¶i tiÕc xu©n mµ
®øng gäi/ Hay lµ nhí níc vÉn n»m
m¬...(Cuèc kªu c¶m høng). Điều đó khiến cái tôi thi nhân của nhà thơ
như muốn tan vào không gian trời nước thu để khuây khỏa cõi lòng. Ông day dứt
về quê hương đất nước, mặc cảm cứ tự trách mình hổ thẹn với non sôn “Ơn vua chưa chút báo đền,/ Cúi trông thẹn
đất, ngửa trông thẹn trời”(Di chúc)
Ba bài thơ
tuy giống nhau về diểm nhìn của tác giả,hệ thống các phương thức biểu hiện.Nhưng
mỗi bài lại mang một nét độc đáo của thơ Nguyễn Khuyến.Làng cảnh Việt Nam đặc
sắc,quen thuộc,đơn sơ,dung dị,đáng yêu.Cái hồn của quê hương hiện lên thật rõ
ràng.Nó rất tiêu biểu cho thơ trữ tình của Nguyễn Khuyến về quê hương thanh
đạm,tinh tế,vài nét chấm phá mà vẫn hội tụ được nhiều vẻ đẹp .
KB: Nông thôn là đề tài hết sức quen thuộc trong thơ Nguyễn
Khuyến.Ông viết nhiều, viết đúng và viết hay về thiên nhiên, con người, cuộc
sống thôn quê. Nguyễn Khuyến được mọi người suy tôn là thi sĩ của nông thôn quả
là xứng đáng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét
Lưu ý: Chỉ thành viên của blog này mới được đăng nhận xét.